Sinh con qua ngả thường là phương pháp sinh lý và tốt nhất cho mẹ và thai nhi. Việc phẫu thuật để đưa thai nhi ra ngoài chỉ nên thực hiện khi bác sĩ đề nghị. Thường là trong trường hợp mẹ có bệnh lý hoặc quá trình chuyển dạ phát sinh vấn đề, không thể sinh thường.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, xu hướng mổ đẻ chủ động trở nên phổ biến. Nhiều người lớn tuổi tin rằng, khi chưa có cơn co thắt chuyển dạ, việc đưa thai nhi ra ngoài là trái với tự nhiên, bởi em bé chưa có dấu hiệu chào đời. Việc sinh mổ chủ động cũng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ sơ sinh sau khi chào đời. Chia sẻ với các mẹ về các trường hợp em đọc trên báo gần đây.  Theo Hà Nội Mới, tại Trung tâm Sơ sinh (Bệnh viện Nhi Trung ương), chỉ trong chưa đầy 1 tuần, các bác sĩ đã tiếp nhận 6 trẻ sinh mổ chủ động gặp các biến chứng nặng. Trong đó có 2 trường hợp nặng nhất.

hình ảnh

 

Trường hợp đầu tiên là bé 1 ngày tuổi ở Thái Bình. Do đã từng sinh mổ lần 1, gia đình lo lắng có thể xảy ra biến chứng nên quyết định sinh mổ chủ động khi thai nhi được 37 tuần. Sau sinh, trẻ được hỗ trợ thở thở áp lực dương liên tục qua mũi. Tuy nhiên, tình trạng suy hô hấp tiến triển, trẻ được đặt nội khí quản chuyển đến Trung tâm Sơ sinh (Bệnh viện Nhi trung ương). Bệnh nhi vào viện trong tình trạng tổn thương phổi nặng, suy tuần hoàn. Sau 7 ngày điều trị, may mắn, tình trạng của trẻ đã cải thiện và ổn định.

Trường hợp thứ hai không may mắn như vậy, là bé trai 1 ngày tuổi ở Nam Định. Mẹ bé từng nằm theo dõi thai kỳ tại bệnh viện 1 tuần. Tuy nhiên, gia đình quá lo lắng và mong muốn sinh mổ khi chưa có cơn chuyển dạ. Trẻ được đẻ mổ chủ động ở tuần thứ 36. Sau sinh, trẻ suy hô hấp, tăng áp phổi nặng và được chuyển tới Bệnh viện Nhi trung ương trong tình trạng tím tái, suy tuần hoàn… Mặc dù đã được hồi sức tích cực nhưng tình trạng không cải thiện. Sau 3 ngày, em bé đã không qua khỏi.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng mổ lấy thai chủ động khi không có chuyển dạ khiến nguy cơ mắc hội chứng suy hô hấp ở trẻ cao gấp 2,6 lần so với mổ đẻ có chuyển dạ và cao gấp 1,9 lần so với đẻ thường. Tỷ lệ mổ lấy thai ở nhiều nước trên thế giới cũng có xu hướng tăng nhanh trong vòng 20 năm trở lại đây, đặc biệt là các nước đang phát triển.

Mổ lấy thai tuy thuận tiện, không rắc rối nhưng không phải phù hợp với tất cả mọi người, các chuyên gia cho rằng tỷ lệ sinh mổ thích hợp có thể giảm tỷ lệ t.ử vong ở trẻ sơ sinh và an toàn hơn cho thai nhi nhưng lại rất có hại cho em bé. Dưới đây, chúng ta hãy nói về những mối nguy hiểm lớn của việc sinh mổ đối với thai nhi:

1. Bé trai sinh mổ có khả năng miễn dịch thấp hơn

Cũng sinh mổ nhưng khả năng miễn dịch của bé trai dễ bị suy giảm hơn so với bé gái. Các bác sĩ sản khoa đã lấy m.áu tĩnh mạch của 63 bé gái và 69 bé trai mới sinh và so sánh các globulin miễn dịch trong đó.

Có 68 trường hợp sinh thường và 64 trường hợp mổ lấy thai. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng có rất ít sự khác biệt về khả năng miễn dịch giữa bé trai và bé gái sinh thường, so với sinh mổ. Trẻ sinh mổ có khả năng miễn dịch và chống nhiễm trùng tương đối kém, hiện tượng này nổi bật hơn ở bé trai.

hình ảnh

Ảnh minh họa (Mombaby)

Các chuyên gia giải thích rằng gen kiểm soát quá trình tổng hợp globulin miễn dịch (chủ yếu dùng để tăng khả năng miễn dịch của con người) nằm trên nhiễm sắc thể X của con người và phụ nữ có nhiều hơn một nhiễm sắc thể này so với nam giới, vì vậy, bé gái có khả năng miễn dịch mạnh hơn bé trai.

Trong nghiên cứu, các chuyên gia đã so sánh hàm lượng bổ thể trong máu tĩnh mạch rốn của trẻ sơ sinh sinh thường và sinh mổ.Trong đó, hàm lượng globulin miễn dịch trong máu cuống rốn của trẻ sơ sinh ở nhóm sinh thường cao hơn đáng kể so với sinh mổ. Nhóm globulin miễn dịch được lấy từ người mẹ trong quá trình chuyển dạ, đặc biệt là khi đi qua ống sinh, do sức ép của các cơn co t.ử cung. Từ quan điểm này, sinh mổ có thể làm giảm khả năng miễn dịch và khả năng chống nhiễm trùng của trẻ sơ sinh và tăng nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh. Vì vậy, các chuyên gia khuyến cáo, khi có điều kiện, tốt nhất mẹ nên sinh con tự nhiên, điều này sẽ có lợi hơn cho sức khỏe của trẻ sơ sinh.

2. Trẻ sinh mổ dễ mắc chứng rối loạn hòa nhập

Tại một số bệnh viện ở Bắc Kinh, tỷ lệ mổ lấy thai có khi lên tới 50%. Các chuyên gia cho rằng, ngoài những trường hợp phải sinh mổ, thực tế nhiều phụ nữ còn sợ đau đớn, muốn giữ dáng thon gọn, thậm chí còn tính đến cuộc sống hôn nhân hài hòa sau này. Tuy nhiên, những bà mẹ tương lai này có thể không biết rằng trẻ sinh mổ dễ bị rối loạn hòa nhập.

Rối loạn tích hợp cảm giác có thực sự liên quan đến sinh mổ? Cái gọi là rối loạn hòa nhập có nghĩa là những gì trẻ nghĩ và những gì trẻ làm không giống nhau, suy nghĩ của trẻ thường không thể kiềm chế được hành vi của mình, và việc sinh mổ quả thực là nguyên nhân dẫn đến rối loạn khả năng hòa nhập của trẻ.

Mỗi chuyển động của thai nhi trong cơ thể người mẹ đều liên quan mật thiết đến vận mệnh tương lai của nó, quá trình sinh nở bình thường của thai nhi trong đường sinh của mẹ cũng là cơ hội đầu tiên để não và cơ thể phối hợp với nhau. Đứa trẻ có quyền đầu tiên được thực hiện sự tích hợp giác quan. . Những khiếm khuyết bẩm sinh và cách giáo dục trẻ sơ sinh, mầm non chưa khoa học đã khiến xã hội và gia đình có một nhóm trẻ gặp khó khăn trong học tập và hành vi, thậm chí còn bị nhầm là trẻ chậm phát triển trí tuệ vì học lực kém.

Trên thực tế, bài kiểm tra IQ của những đứa trẻ này nhìn chung đều ở mức trên mức trung bình, tuy nhiên, do qua khám tổng quát khó phát hiện các em mắc chứng rối loạn hòa nhập nên khó có thể phục hồi và điều trị kịp thời. Phản ứng thể chất của trẻ rất bất thường, chức năng nhận thức và rối loạn chú ý của chúng ảnh hưởng nhiều hơn đến sự tự ý thức và lòng tự trọng của trẻ. Là cha mẹ, chúng ta nên để con trải nghiệm càng nhiều sự kích thích từ thế giới bên ngoài càng tốt, tham gia nhiều hoạt động ngoài trời hơn, khuyến khích trẻ tự làm mọi việc, kể cả sinh hoạt hàng ngày và ăn uống. Tập thể dục đầy đủ có thể giúp cải thiện khả năng tích hợp não của trẻ.

3. Trẻ sinh mổ dễ bị ADHD

Trong khi nhiều phụ nữ mang thai mong muốn lựa chọn sinh mổ thì tin tức về ADHD xuất viện lại đáng lo ngại: 80% trẻ mắc ADHD tìm cách điều trị bằng phương pháp sinh mổ.

hình ảnh

Ảnh minh họa (Nguồn ixua)

Theo phân tích của chuyên gia, sinh mổ làm thay đổi “môi trường” của trẻ khi trẻ chào đời do thay đổi ống sinh, đồng thời tổn thương cảm giác như tiếp xúc thần kinh do quá trình sản sinh ống sinh bình thường khiến trẻ dễ bị tăng động và các bệnh khác khi chúng lớn lên. Các chuyên gia nhắc nhở mọi người không nên mù quáng chọn phương pháp sinh mổ, đồng thời phải điều trị đúng cách cho trẻ mắc chứng ADHD.

4. Trẻ sinh mổ khả năng thích nghi kém

Nhiều người cho rằng trẻ sinh mổ thông minh hơn trẻ sinh thường. Lý do là những đứa trẻ sinh ra qua phẫu thuật sẽ không bị chèn ép, không bị thiếu máu não hay tổn thương não. Đây thực chất là một loại hiểu lầm.

Trong quá trình sinh thường, dù đầu thai nhi sẽ bị ép nhưng sẽ trở lại bình thường sau một hoặc hai ngày. Khi thai nhi bị căng thẳng còn kích thích tuần hoàn máu lên não, cung cấp thêm cơ sở vật chất cho trung tâm hô hấp của não, dễ kích thích thở và khóc sau khi sinh.

Ngoài ra, đầu của thai nhi có thể ép ra nước ối và chất nhầy tích tụ trong phổi, mũi và miệng của thai nhi thông qua sự co bóp của t.ử cung và sức cản của sàn chậu, giúp ngăn ngừa sự xuất hiện của viêm não hô hấp. Có số liệu chứng minh rằng không có sự khác biệt về trí thông minh giữa trẻ sinh mổ và trẻ sinh tự nhiên, nhưng khả năng thích ứng của trẻ sinh mổ kém hơn trẻ sinh tự nhiên.

Da người là cơ quan học tập xúc giác, có phản xạ phòng thủ bình thường, trẻ cần hiểu bản thân và môi trường thông qua da để có phản ứng bình thường với thế giới khách quan. Trẻ sinh mổ mắc chứng rối loạn học tập xúc giác bẩm sinh, biểu hiện ngay từ khi còn nhỏ, không thể thích ứng với các thông tin mà da tiếp xúc như tắm rửa, thay quần áo, thay giường, khả năng thích ứng tương đối kém, hoặc phản ứng bảo vệ quá mức và biểu hiện dễ xúc động, thích khóc, khó ngủ và ngủ không ngon.

5. Mổ lấy thai làm tăng số trẻ mắc “hội chứng phổi ướt”

Số trẻ sơ sinh được đưa vào phòng chăm sóc đặc biệt do “hội chứng phổi ướt” đã tăng gấp đôi trong 5 năm qua, kết quả nghiên cứu cho thấy hơn 70% mẹ sinh mổ, không bị đau đẻ hoặc sinh non. Tất cả đều có nguy cơ mắc bệnh phổi ướt nặng cao hơn, có thể dẫn đến t.ử vong. Các bác sĩ khuyến cáo sản phụ nên sinh con qua đường sinh trước và tránh sinh mổ vì sở thích hoặc sự thuận tiện cá nhân, nếu không sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của em bé.

Một nghiên cứu cho thấy số ca khó thở thoáng qua ở trẻ sơ sinh, còn được gọi là hội chứng phổi ướt, cần nhập viện tại đơn vị chăm sóc đặc biệt dành cho trẻ sơ sinh (ICU) đã tăng hơn gấp đôi trong 5 năm qua, từ 20 trường hợp vào năm 2002. Con số này tăng lên 43 trường hợp. trường hợp năm ngoái. Trong số 155 trẻ sơ sinh có các triệu chứng nặng của hội chứng phổi ướt, 71% được sinh bằng phương pháp sinh mổ, khiến trẻ không thể tự làm sạch nước trong phổi. 45% trong số đó được sinh bằng phương pháp sinh mổ trước khi cơn đau chuyển dạ xảy ra.

Dữ liệu cho thấy số lượng nhập viện ICU do hội chứng phổi ướt đang gia tăng hàng năm và tình trạng này có liên quan đến việc ngày càng nhiều phụ nữ mang thai lựa chọn sinh mổ. Các chuyên gia khuyến cáo các bậc cha mẹ tương lai nên sinh con tự nhiên qua đường sinh trước và tránh sinh mổ một cách hấp tấp do các yếu tố bên ngoài như sở thích, chọn ngày hay thậm chí là đặt giường.

6. Tác dụng của liều gây mê đối với thai nhi

Hầu như tất cả các loại gây mê và giảm đau đều có tác dụng ức chế hệ thống trung tâm và chúng có thể dễ dàng đi qua hàng rào nhau thai và xâm nhập vào thai nhi. Vai trò quan trọng của nhau thai là hoạt động như phổi của thai nhi và trao đổi khí. Nhưng hiệu suất trao đổi khí thực tế chỉ bằng 1/150 của phổi. Oxy được má.u mẹ vận chuyển đi vào tuần hoàn máu của thai nhi qua không gian xen kẽ của nhau thai, và carbon dioxide trong máu thai nhi cũng đi vào tuần hoàn máu của mẹ thông qua khuếch tán.

Các loại gây mê có thể ảnh hưởng đến thai nhi theo hai cách, đó là ức chế trực tiếp trung tâm hô hấp và tuần hoàn của thai nhi, hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến thai nhi bằng cách ức chế tuần hoàn hô hấp của mẹ. Việc gây mê quá mức hoặc mẹ bị thiếu oxy do suy hô hấp trong khi phẫu thuật sẽ ảnh hưởng đến việc cung cấp oxy cho bé và thải chất thải trao đổi chất, đe dọa trực tiếp đến sự an toàn tính mạng của bé.

Sinh con tự nhiên là chuyện bình thường của con người, chỉ khi thai nhi hoặc mẹ có vấn đề gì bất thường thì mới nên dùng phương pháp sinh mổ để chấm dứt thai kỳ càng sớm càng tốt. Bởi vì, trong hoàn cảnh bình thường, sinh mổ dù sao cũng là một ca phẫu thuật, tổn thương đối với cơ thể người mẹ lớn hơn rất nhiều so với sinh con tự nhiên, đồng thời sẽ làm trì hoãn quá trình hồi phục sau sinh của người mẹ, đó là chưa kể đến mẹ muốn nuôi con bằng sữa mẹ cũng sẽ ảnh hường. Sinh con, giống như mang thai, là một trải nghiệm bình thường và tự nhiên đối với phụ nữ. Các mẹ nên tin vào sức mạnh của thiên nhiên và tiềm năng của chính mình, củng cố niềm tin vào việc sinh con tự nhiên và trải nghiệm trọn vẹn hành trình này.